Ta nhớ đến viên kẹo hắn từng đưa, đến cuốn thoại bản giấu trong tay áo, nhớ đến ánh mắt lạnh như băng của hắn trong ngày đại hôn, nhớ đến vẻ mặt điềm tĩnh hắn khi mưu nghị với gian tế Bắc Địch…

Từng hình ảnh, như từng mũi dao, cứa thẳng vào tim.

Thì ra, khi đánh mất kẻ mình yêu, trong mắt không phải là không còn ánh sáng.

Mà là, ánh sáng ấy từ đầu đã là giả — là cái bẫy nhuốm độc.

Ta vịn tường, từ từ đứng dậy, chân tê dại vì ngồi lâu trong cỏ rậm.

Nhìn về phía hắn vừa rời đi, ta đưa tay gạt đi giọt lệ lạnh lẽo không biết đã tràn ra từ khi nào, ánh mắt từng chút trở nên kiên định.

Ta không thể ngồi chờ chết.

Ta phải sống.

Sống để tra cho rõ chân tướng, để rửa sạch oan khuất cho phụ mẫu ta.

Còn Tống Cẩn Thừa…

Từ nay về sau, giữa ngươi và ta, không chỉ là tình hay hận — mà là sinh tử tương tàn, bất cộng đái thiên!

Bóng đêm dày đặc, đen như mực tàu loang kín giấy trắng.

Ta lặng lẽ quay về phòng, khép kín cửa sổ, tựa như chưa từng có chuyện gì xảy ra.

Nhưng ta biết, mọi sự… đã không còn như xưa.

Ta co mình trên chiếc giường lạnh như băng, suốt đêm không thể chợp mắt.

Cảnh tượng Tống Cẩn Thừa mật đàm với gian tế, và khuôn mặt giả vờ chính trực của An Định hầu – phụ thân hắn – liên tục hiện lên trong đầu ta.

Nếu Tống Cẩn Thừa là nội gián, vậy còn An Định hầu? Hắn biết không?

Hay… chính hắn mới là kẻ chủ mưu đứng sau tất cả?

Gian tế áo xanh gọi “Thái tử điện hạ”, chắc là Thái tử Bắc Địch, nhưng Tống Cẩn Thừa lại nhắc đến “sơ đồ bố trí biên phòng” và “Lý Hoằng”.

Vũng nước này, sâu hơn ta tưởng rất nhiều.

Sáng hôm sau, cơm canh đưa đến vẫn ôi thiu như cũ. Ta mặt không đổi sắc ăn vào.

Hiện tại, không phải lúc để để tâm đến những thứ ấy.

Ta cần thu thập thêm chứng cứ.

Cơ hội xuất hiện sau vài ngày.

Hầu phu nhân – tức bà bà ta – có lẽ vẫn còn sót chút lương tâm, lén sai một bà vú trung thành, mang đến vài bộ y phục sạch sẽ và chút lương khô khó hỏng.

“Phu nhân bảo lão nô chuyển lời… phu nhân mong tiểu thư tự bảo trọng.”

Bà vú khẽ nói, trong mắt lộ ra nét thương cảm phức tạp.

Trong lúc bà thu dọn, ta chú ý đến bên hông bà có treo một chùm chìa khóa.

Một chiếc trong đó — kiểu dáng cổ xưa, đầu khóa còn dính vết đất ẩm mới.

Ấy là… chìa khóa thông đến miếu tổ bỏ hoang sau núi Hầu phủ?

Ta nhớ thuở nhỏ nghịch ngợm từng lẻn đến một lần, nơi ấy âm u lạnh lẽo, nghe nói ẩn giấu không ít điều mờ ám của Hầu phủ, An Định hầu cấm nghiêm người lui tới.

Vậy mà bà vú kia… sao trên chìa khóa dính được bùn đất ở đó?

Một ý nghĩ táo bạo bất chợt nảy lên trong đầu ta.

Đêm khuya vắng lặng, ta lại lần nữa theo lối cũ, trèo cửa sổ mà ra.

Lần này, mục tiêu của ta rõ ràng — miếu tổ sau núi.

Tránh né thị vệ tuần tra gian nan hơn tưởng. Giới nghiêm với “tội nữ” như ta đã thêm phần nghiêm ngặt.
Ta gần như bò sát mặt đất, lợi dụng từng tán cây, từng rặng cỏ, tim đập thình thịch như muốn thoát khỏi lồng ngực.

Khó nhọc lắm mới đến được ngoài miếu tổ. Quả nhiên càng hoang phế hơn xưa, song ổ khóa trên cánh cửa lại là đồ mới.

Ta thử từng chiếc chìa trên xâu khóa kia, rất giống, nhưng đều không khớp.

Khi ta gần như định từ bỏ, dưới chân bất ngờ đá trúng một tấm đá lát lỏng lẻo.

Dời tấm đá ấy ra, bên dưới là một lối nhỏ, chỉ đủ cho một người bò qua, đen ngòm, bốc lên mùi ẩm mốc khó chịu.

Không còn cách nào khác, ta nghiến răng, chui vào.

Bên trong miếu tổ rộng hơn ta tưởng. Mạng nhện giăng đầy, bài vị nghiêng ngả xiêu vẹo.

Nhưng nơi sâu nhất, lại có một án thờ được lau dọn sạch sẽ dị thường. Trên ấy không đặt bài vị, mà chỉ có một chiếc hộp gỗ tử đàn.

Hộp không khóa.

Bàn tay run rẩy, ta từ từ mở ra.

Bên trong không phải vàng bạc châu báu, mà là một chồng thư tín dày cộp.

Lá đầu tiên đập vào mắt, nét chữ khiến ta cứng đờ tại chỗ — là bút tích của phụ thân ta! Nhưng nội dung… không giống lá thư “phản quốc”!

“Gửi An Định hầu huynh đài: Tai mắt kinh thành truyền tin, Hoàng đế muốn tăng thu ‘thuế diệt Địch’, lòng dân oán thán, sôi sục như nồi nước sắp trào…

Thái tử Lý Hoằng, tàn bạo hơn cả phụ hoàng hắn, nếu lên ngôi, thiên hạ sinh linh há chẳng phải chịu khổ nạn?

Huynh đệ ta từng thề vì dân thỉnh mệnh, tạo lại thanh minh, nay thời cơ há chẳng đã chín muồi?”

Ta nghẹn thở, lật tiếp.

Lá thư hồi đáp của An Định hầu:

“Huynh đệ Liễu Nghị chớ vội, Bệ hạ hôn ám, Thái tử vô đạo, ai chẳng hay. Song muốn làm đại sự, cần mưu định kỹ càng.

Bắc Địch xâm biên, tuy là nguy cơ, song cũng là cơ hội.

Mượn lực địch để địch, mới mong một lần thành công. Huynh đệ cùng đệ muội ẩn thân nơi trại địch, mọi sự cẩn trọng, chịu khổ ủy khuất, huynh đệ, ta nhớ mãi trong lòng.”

Lại một lá khác, do phụ thân ta viết:

“… Cẩn Thừa đứa nhỏ kia, tâm chí kiên cường, là mầm tốt, nhưng chuyện này hiểm nguy, có nên để nó biết chăng? Nó gần gũi với Thái tử, lỡ mà…”

An Định hầu hồi thư:

“Chuyện của Cẩn Thừa, ta đã có sắp xếp. Nó thân cận Thái tử là vì hư giả dối trá, chính là một mắt xích trong toàn cục.

Làm đại sự, không câu nệ tiểu tiết, cần che mắt thiên hạ. Chờ ngày thành công, sẽ tự nói rõ cùng nó.

Chỉ là khổ cho Đoá Đoá đứa nhỏ… gả vào phủ ta, chịu liên lụy, trong lòng ta thật thẹn.”

Ta đọc từng bức thư, tay chân lạnh ngắt, toàn thân lại như bốc cháy.

Thì ra là vậy!

Căn bản không hề có chuyện phản quốc!